Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của thế giới, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, là tấm gương sáng cho Đảng và nhân dân ta cùng các thế hệ người Việt Nam phấn đấu suốt đời học tập và noi theo. Trong đó, tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc và của toàn nhân loại, là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Trong Di chúc mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, trong 6 vấn đề lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới, Người đặc biệt chú trọng đến vấn đề đoàn kết, là vấn đề mà Người lo ngại và trăn trở nhất. Người đã từng nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”
 I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở tư tưởng – lý luận và thực tiễn rất phong phú. Đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1. Những giá trị truyền thống của dân tộc
Đó là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, ý chí bất khuất, tự lực, tự cường, tinh thần tương thân, tương ái, lạc quan, yêu đời gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử tạo nên sức mạnh to lớn để nhân dân ta đấu tranh dựng nước và giữ nước, chống lại thiên tai, địch họa, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Với mỗi người Việt Nam, yêu nước, nhân nghĩa, đoàn  kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên, một triết lý nhân sinh, thành phép ứng xử và tư duy chính trị. Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống. Và truyền thống ấy được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gươm, Người trong một nước, phải thương nhau cùng”“Tình làng, nghĩa nước, Nước mất thì nhà tan”, hay “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”,… Truyền thống ấy, được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phản động tay sai.
Hồ Chí  Minh đã sớm tiếp thu được những giá trị của truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Hơn nữa, Người còn kết hợp những truyền thống đó với những giá trị của thời đại để hình thành hệ thống quan điểm cách mạng của mình.
2. Quá trình tổng kết thực tiễn các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
Trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, đã có rất nhiều xu hướng khác nhau để cứu nước nhưng cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều thất bại. Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Từ thực tiễn đó, Người đã chỉ ra rằng: chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại các đế quốc thực dân xâm lược. Vận mệnh của đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được một đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ, tập hợp được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và thực dân, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì giành được thắng lợi.
Trong 30 năm bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước. Thực tiễn của cách mạng thế giới đã giúp Người nhận thức một sự thực: “Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”. Từ thực tiễn cách mạng thế giới Người đã rút ra kết luận: Cách mạng Mỹ, Pháp là những cuộc cách mạng chưa đến nơi vì sau khi cách mạng thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh to lớn, nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết và chưa có tổ chức. Chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để vì “cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Phong trào cách mạng ở các nước như Trung Quốc và Ấn Độ đã để lại những bài học quý giá về việc huy động lực lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp cách mạng.
Những kết luận trên đã giúp Người chuẩn bị những nhân tố cần thiết, những kinh nghiệm để huy động, tập hợp lực lượng quần chúng cho việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng của mình.
3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sáng tạo lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành  giai cấp dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, …
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin cho rằng: sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự  đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin vì nó đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, chỉ ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên toàn thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đề quốc, thực dân.
Hồ Chí Minh đã sớm nắm được nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, qua đó, Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác các yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, những bài học rút ra từ các cuộc cách mạng các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
Chiến lược đại đoàn kết là chiến lược vận động, tập hợp mọi lực lượng nhân dân, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai cấp. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết thành chân lí: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”“Đoàn kết là then chốt của thành công”,…
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau. Người cho rằng: Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng, và đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng:
Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Cách mạng muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, quy mô của đoàn kết quyết định quy mô,mức độ của thành công.
2. Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng mà sức mạnh của Đảng là sức mạnh của khối đoàn kết giữa các thành viên. Vì vậy, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân để củng cố khối đại đoàn kết trong các tổ chức chính trị xã hội nói chung. Hồ Chí Minh cho rằng: Vấn đề đoàn kết phải được quán triệt từ chủ trương, đường lối, chính sách cho đến những hoạt động thực tiễn của Đảng, luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng.
Về mục tiêu của Đảng, tại Đại hội lần thứ hai năm 1951, Người chỉ ra: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Từ đó, Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là để thực hiện khối đoàn kết toàn dân
 “Dân” vừa được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân nước Việt, con Rồng, cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, tín ngưỡng,… Như vậy, “dân” được hiểu là chủ thể, là đối tượng, là lực lượng của đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa là không chỉ huy động lực lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong toàn lãnh thổ Việt Nam mà còn huy động tập hợp lực lượng những người Việt Nam đang sinh sống và định cư ở nước ngoài vào khối đại đoàn kết dân tộc.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công – nông – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì quần chúng nhân dân phải được tổ chức mới tạo thành sức mạnh vật chất. Quy tụ quần chúng nhân dân vào một tổ chức yêu nước phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng là sự quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
Tổ chức thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đó là một tổ chức chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài ngước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Mặt trận Dân tộc thống nhất được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc:
Thứ nhất, Mặt trận Dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ đó, Mặt trận được mở rộng và thực sự quy tụ cả dân tộc, tập hợp toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ hai, Mặt trận Dân tộc thống nhất hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, phải làm cho mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết.
Thứ ba, đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đó là sự đoàn kết chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, đoàn thể, … trong Mặt trận, thực hiên hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung, đề cao cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Về vị trí của Đảng Cộng sản trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc.
Đảng vừa là Đảng của giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đại bộ phận nhân dân Việt Nam coi Đảng cộng sản là Đảng của mình. Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải vừa là đạo đức, vừa là văn minh, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại, phải thực sự đoàn kết nhất trí.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ phận tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời cũng là một thành viên của mặt trận. Quyền lãnh đạo mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình mà là được nhân dân thừa nhận.
Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết toàn dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường. Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống xã hội hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
5. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công 3 tầng Mặt trận: Mặt trận Đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận Đoàn kết Việt – Miên – Lào và Mặt trận Nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ, là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
III. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị biểu hiện tập trung ở những điểm sau:
Đoàn kết là bài học hàng đầu có tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ thì thất bại.
Đoàn kết phải có nguyên tắc. vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời.
Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau.
Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
Đoàn kết đi liền bao dung, thực hiện nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải xây dựng khối đại đoàn kết trong Đảng.
Thực hiện đồng bộ đoàn kết Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, thế giới.
KẾT LUẬN
Đại hội XI của Đảng ta xác định: “Hơn bao giờ hết cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”.
Hiện nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết trong tình hình mới. Qua hơn một phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀO XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN HIỆN NAY
1.Giáo dục nâng cao nhận thức về tính cấp thiết xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều này đã trở thành truyền thống quý báu của Đảng và nhân dân ta, tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tuy nhiên, “khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới”[11]. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận dân chưa vững chắc, việc tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hộ còn nhiều hạn chế.
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Trong khi đó, những tác động tiêu cực từ tình hình kinh tế xã hội, sự chống phá của kẻ thù đang ảnh hưởng không nhỏ tới xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay có những quan niệm muốn thu hẹp hoạt động của Mặt trận, bài bác, chê bai một số việc làm của Mặt trận, thực chất là muốn hạ thấp vai trò của Mặt trận, xem nhẹ tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách để chia rẽ, phân hóa, gây nên tình trạnh đối đầu giữa các bộ phận dân cư để phá ta từ bên trong, khi cần thì dùng lực lượng từ bên ngoài để can thiệp hỗ trợ. Thủ đoạn của chúng hết sức tinh vi, thâm độc. Nhất là, chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lợi dụng các khó khăn, yếu kém trong quản lý của các cấp chính quyền, bịa đặt, vu khống tung tin thất thiệt... nhằm làm cho người dân nghi ngờ, nghi kỵ và xung đột lẫn nhau. Trong không ít trường hợp, người dân rất khó phát hiện ra âm mưu, thủ đoạn của chúng, vô tình mắc mưu của kẻ xấu, làm suy giảm khối đại đoàn kết toàn dân. Về phía chúng ta, việc tập hợp xây dựng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số... Một số cấp ủy, cán bộ đảng viên còn hẹp hòi, định kiến với những người ngoài đảng, người làm kinh tế tư nhân.
Xuất phát từ thực tế, cả về mặt khách quan và nhân tố chủ quan cho thấy cần phải tăng cường giáo dục để nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Quán triệt và thực hiện tốt những chủ trương, biện pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.
Trong tình hình hiện nay, để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa Nghị quyết đại hội lần thứ IX, X của Đảng, Nghị quyết TW 7 (khóa IX) về “phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” vào cuộc sống, cần thực thi mạnh mẽ, có hiệu quả những chủ trương biện pháp chủ yếu sau:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Ba là, xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thực hiện dân chủ gắn liền với tăng cường, đẩy mạnh chống các tiêu cực trong Đảng, Nhà nước và xã hội để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Năm là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.

          Sáu là, phát huy vai trò của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị trong xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó coi trọng xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền nhà nước ở các cấp trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

 


Thứ Ba, 29 tháng 5, 2018

TH 39 GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC QUA CÁC MÔN HỌC


TH 39
GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC QUA CÁC MÔN HỌC
I. Nhận thức:
I.1. Một số vấn đề chung về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống qua các môn học ở tiểu học.
1.  Khái niệm về kỹ năng sống:
        Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
2. Mục tiêu:
            - Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ, kỹ năng phù hợp:
            + Hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực, giúp HS có khả năng ứng phó phù hợp và linh hoạt trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày.
            + KNS giúp HS vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành.
            - Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức
            - Nhằm đẩy mạnh phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, đồng thời có sự thống nhất cao việc tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học trong toàn cấp học; trang bị cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày; giúp các em có khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử, ứng phó phù hợp, tích cực trước tình huống cuộc sống. 
            - Giúp GV soạn và dạy được KNS cho học sinh TH.
3. yêu cầu:
            - Việc bố trí sắp xếp bàn ghế trong phòng học, vị trí trưng bày sản phẩm của học sinh….
            - Chuẩn bị thiết bị đồ dùng dạy học, các loại phiếu học tâp sử dụng cho các hoạt động trong giờ học.
            - Giáo viên mạnh dạn, tích cực trong việc tổ chức các hoạt động dạy học, vận dụng các phương pháp dạy học, các kỹ thuật dạy học phù hợp…
            - Tạo được sự thân thiện, hợp tác, các giao tiếp ứng xử trong giờ học giữa giáo viên và học sinh, học sinh và học sinh, động viên, tạo cơ hôị cho mọi đối tượng học sinh cùng tham gia
I.2. Nội dung và địa chỉ giáo dục kỹ năng sống qua một số môn học như Tiếng Việt, Đạo đức, TN & XH:
1. Môn Tiếng Việt:
a/ Khả năng GD KNS qua môn Tiếng Việt:
            Môn TV là một trong những môn học ở cấp tiểu học có khả năng GD KNS khá cao, hầu hết các bài học đều có thể tích hợp GD KNS cho HS ở những mức độ nhất định. 
            Số lượng phân môn nhiều, thời gian dành cho môn học chiếm tỉ lệ cao. Các bài học trong các phân môn đều có khả năng giáo dục KNS cho học sinh.
b/ Mục tiêu và nội dung sống qua môn Tiếng Việt:
            - Giúp HS bước đầu hình thành và rèn luyện các KNS cần thiết, phù hợp lứa tuổi; nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, biết tự nhìn nhận, đánh giá đúng về bản thân; biết ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ; biết sống tích cực, chủ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
            - Nội dung GD KNS được thể hiện ở tất cả các nội dung học tập của môn học. 
            - Những KNS chủ yếu đó là: KN giao tiếp; KN tự nhận thức; KN suy nghĩ sáng tạo; KN ra quyết định; KN làm chủ bản thân.
c/ Các yêu cầu cần thiết phải đưa GD KNS váo môn Tiếng Việt:
            - Xuất phát từ Thực tế cuộc sống: sự phát triển của KHKT, sự hội nhập, giao lưu, những yêu cầu và thách thức mới của cuộc sống hiện đại
            - Xuất phát từ mục tiêu GDTH: GD con người toàn diện
            - Xuất phát từ đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học
            - Xuất phát từ thực tế dạy học Tiếng việt: cung cấp KT và KN sử dụng Tiếng việt thông qua thực hành ( hành dụng)
d/ Các loại KNS : 
            * KN cơ bản : gồm kỹ năng đơn lẻ và kỷ năng tổng hợp 
            * KN đặc thù : + KN nghề nghiệp  + KN chuyên biệt
e/ Nội dung gd kns trong môn T.Việt
            - KNS đặc thù, thể hiện ưu thế của môn TV : KN giao tiếp
            - KN nhận thức (gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định,...) là những KN mà môn TV cũng có ưu thế vì đối tượng của môn học này là công cụ của tư duy. 
            - Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,... giữa các thành viên trong xã hội. 
            - Các KNS này của HS được hình thành, phát triển dần, từ những KN đơn lẻ đến những KN tổng hợp. 
2. Môn Đạo đức:
+ Đạo đức GD cho HS bước đầu biết sống và ứng xử phù hợp với các chuẩn mực biến nhận thức thành hành vi chuẩn mực thể hiện thông qua kĩ năng sống.
Mục tiêu gd kns cho hs qua môn đạo đức

           
            + Bước đầu trang bị cho HS các KNS cần thiết, phù hợp với lứa tuổi.
+ Hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực.
+ Phát triển khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh.
+ Rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường.
+ Rèn cho học sinh biết cách giao tiếp và ứng xử phù hợp và linh hoạt trong cuộc sống hằng ngày.
+ Hướng dẫn học sinh biết cách phối hợp công việc của từng cá nhân khi làm việc đồng đội.
+ KNS giúp HS vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính thực hành
+ Biết sống tích cực, chủ động
     + Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
            Trong các chương trình giáo dục kĩ năng sống cho HSTiểu học, người ta nhắc đến những nhóm kỹ năng sống sau đây:
a) Nhóm kĩ năng nhận thức:
- Nhận thức bản thân.
- Xây dựng kế hoạch.
- Kĩ năng học và tự học
- Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo.
- Giải quyết vấn đề
b) Nhóm kĩ năng xã hội:
- Kĩ năng giao tiếp .
- Kĩ năng thuyết trình và nói được đám đông.
- Kĩ năng diễn đạt cảm xúc và phản hồi.
- Kĩ năng làm việc nhóm (làm việc đồng đội)
c) Nhóm kĩ năng quản lý bản thân:
- Kĩ năng làm chủ.
- Quản lý thời gian
- Giải trí lành mạnh
d) Nhóm kĩ năng xã hội:
- Kĩ năng quan sát.
- Kĩ năng làm việc nhóm.
- Kĩ năng lãnh đạo (làm thủ lĩnh).
đ)Nhóm kĩ năng giao tiếp
- Xác định đối tượng giao tiếp
- Xác định nội dung và hình thức giao tiếp
e)Nhóm kĩ năng phòng chống bạo lực:
- Phòng chống xâm hại thân thể.
- Phòng chống bạo lực học đường.
- Phòng chống bạo lực gia đình.
- Tránh tác động xấu từ bạn bè.

Thông qua môn Đạo đức, kiến thức được hình thành trên cơ sở từ việc quan sát tranh, từ một truyện kể, một việc làm, một hành vi, chuẩn mực nào đó, sau đó rút ra bài học. Từ bài học đó các em liên hệ thực tế xung quanh, bản thân, gia đình và xã hội và môi trường tự nhiên. Chỉ khác hơn là GV viên cố gắng trong phạm vi có thể khi soạn và giảng từng phần của bài học phải tạo một điểm nhấn cụ thể, rõ ràng, nhằm khắc sâu những kĩ năng sống đã có sẵn trong từng bài học và những kĩ năng sống chúng ta lồng ghép trong quá trình soạn –giảng.
c. Môn Khoa học:
3. Địa chỉ giáo dục kĩ năng sống trong môn khoa học:
a) Lớp 4:
+ Có 21 địa chỉ.
+ Trong đó có 5 địa chỉ đã soạn sẵn theo mẫu: Bài 13: Phòng bệnh béo phì. Bài 14: Phòng bệnh lây qua đường tiêu hóa. Bài 39-40: Không khí bị ô nhiễm. Bảo vệ bầu không khí trong sạch. Bài 65: Quan hệ thức ăn trong tự nhiên. Bài 66: Chuỗi thức ăn trong tự nhiên.
b) Lớp 5:
+ Có 26 địa chỉ.
+ Trong đó có 5 địa chỉ đã soạn sẵn theo mẫu: Bài 9-10: Thực hành nói “không” với các chất gây nghiện. Bài 18: Phòng tránh bị xâm hại. Bài 42-43: Sử dụng năng lượng chất đốt (2 tiết). Bài 48: An toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện. Bài 66: Tác động của con người đến môi trường đất.
4. Cách soạn và trình bày:
            a) Bài soạn và cách thức:
b) Tiến trình dạy học:
* Có 4 bước chính:
            + Khám phá: HS đã biết gì, chưa biết gì về vấn đề đưa ra?
Ví dụ: Các em hãy cho biết vì sao nước bị ô nhiễm? HS trả lời: … Dựa vào sự hiểu biết của HS, GV dẫn vào bài mới: Để biết vì sao nươc bị ô nhiễm, thầy cùng các em đi tìm hiểu qua bài: nguyên nhân làm nước bị ô nhiễm….
            + Kết nối: Kết nối nội dung mới của bài. Giải quyết tất cả những kiến thức mới.
            + Thực hành: Đưa ra những tình huống, những nội dung, những trò chơi để vận dụng kiến thức đó.
            + Vận dụng: Tùy ở từng hoàn cảnh từng em, chúng ta có bài vận dụng (các em nắm được thông tin nào về bài học).
* Tóm lại: Qua 1 tiến trình, đảm bảo giáo dục được KNS.
* Thống nhất quan điểm khi soạn bài:
             Quan điểm của Bộ giáo dục: Tiến sĩ Nguyễn Tiến Dũng cho rằng
            + Đây là 1 tài liệu cho giáo viên tham khảo.
            + Giáo viên là người hoạt đông thực tiễn, biết được giá trị quyển sách này là gì? Có thể dùng từ này, không dùng từ này.
            + Có ma trận: Nhiều địa chỉ tăng cường các kĩ năng sống, không cứng quá, có thể tìm 1 địa chỉ khác. Đây là những bài minh họa, không phải nhất thiết tuân theo.
            + Càng ngày, việc chỉ đạo dạy học linh hoạt, phát huy tính độc lập, sáng tạo của các thầy cô. Các thầy cô thích làm gì thì làm, dạy phương pháp gia không biết miễn là khi đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng đạt là được.(Tránh lệch chuẩn KTKN)
I.3. Các phương pháp và kỹ thuật tích hợp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào môn học:
1. Sự khác biệt giữa dạy các môn học (VD: Đạo đức) với GDKNS: Chương trình giáo dục môn Đạo đức ở cấp tiểu học có một số nội dung trùng hợp với nội dung của giáo dục kỹ năng sống. Tuy nhiên, mục đích và phương pháp dạy các môn này không giống nhau hoàn toàn. Đây là sự khác biệt cơ bản của việc giáo dục kỹ năng sống với các môn học khác (như môn Đạo đức).
2. PPDH – Kỹ thuật dạy học: Cũng như các môn học khác, GDKNS cũng sử dụng các  PPDH tích cực như:
- PPDH theo nhóm, PP giải quyết vấn đề, PP đóng vai, PP trò chơi…
- Kỹ thuật dạy học: Kỹ thuật chia nhóm, Kỹ thuật đặt câu hỏi, Kỹ thuật khăn trải bàn, Kỹ thuật trình bày 1 phút, Kỹ thuật bản đồ tư duy.

Câu 2: TRÌNH BÀY NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ Khái niệm:  Như bất kỳ một tổ chức chính trị nào khác, sự tồn tại v...