TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Hồ Chí Minh – anh hùng giải
phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của thế giới, người thầy
vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người là nền tảng tư tưởng, là kim
chỉ nam cho hành động của Đảng ta và giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời
sống tinh thần của nhân dân ta, là tấm gương sáng cho Đảng và nhân dân ta cùng
các thế hệ người Việt Nam phấn đấu suốt đời học tập và noi theo. Trong đó, tư
tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá
trình phát triển của dân tộc và của toàn nhân loại, là tư tưởng xuyên suốt,
nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và
đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ
vang của dân tộc.
Trong Di chúc mà
Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, trong 6 vấn đề lớn mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề cập tới, Người đặc biệt chú trọng đến vấn đề đoàn kết, là vấn đề mà
Người lo ngại và trăn trở nhất. Người đã từng nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
I.
Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở tư tưởng – lý luận và
thực tiễn rất phong phú. Đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu
tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã
vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và
điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1.
Những giá trị truyền thống của dân tộc
Đó là tinh thần yêu nước,
nhân nghĩa, ý chí bất khuất, tự lực, tự cường, tinh thần tương thân, tương ái,
lạc quan, yêu đời gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân
tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng
nghìn năm lịch sử tạo nên sức mạnh to lớn để nhân dân ta đấu tranh dựng
nước và giữ nước, chống lại thiên tai, địch họa, tạo thành một truyền
thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi con
người Việt Nam.
Với mỗi người Việt Nam, yêu
nước, nhân nghĩa, đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên,
một triết lý nhân sinh, thành phép ứng xử và tư duy chính trị. Tất
cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống. Và truyền
thống ấy được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gươm,
Người trong một nước, phải thương nhau cùng”, “Tình làng, nghĩa nước, Nước
mất thì nhà tan”, hay “Giặc đến nhà, đàn bà cũng
đánh”,… Truyền thống ấy, được
tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu
nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phản
động tay sai.
Hồ Chí Minh đã sớm
tiếp thu được những giá trị của truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn
kết của dân tộc. Hơn nữa, Người còn kết hợp những truyền thống đó với
những giá trị của thời đại để hình thành hệ thống quan điểm cách mạng của mình.
2.
Quá trình tổng kết thực tiễn các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới
Trong hơn 80 năm bị thực dân
Pháp đô hộ, đã có rất nhiều xu hướng khác nhau để cứu nước nhưng cuối cùng tất
cả các xu hướng đó đều thất bại. Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế
trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc
nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đoạn này. Từ thực
tiễn đó, Người đã chỉ ra rằng: chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể
đánh bại các đế quốc thực dân xâm lược. Vận mệnh của đất nước đòi
hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được một đường
lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch
sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ, tập hợp được
cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và thực dân, xây dựng
được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì giành được thắng lợi.
Trong 30 năm bôn ba khắp thế
giới để tìm đường cứu nước. Thực tiễn của cách mạng thế giới đã giúp Người nhận
thức một sự thực: “Các
dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ chưa
đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự
liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ
chức và chưa biết tổ chức…”. Từ thực tiễn cách mạng thế
giới Người đã rút ra kết luận: Cách mạng Mỹ, Pháp là những cuộc cách mạng chưa
đến nơi vì sau khi cách mạng thành công, nhân dân vẫn bị áp bức, bóc lột, nghèo
nàn. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh to lớn,
nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết và chưa có tổ chức. Chỉ
có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để vì “cách mệnh rồi thì quyền giao
cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh
nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Phong trào cách mạng ở các nước
như Trung Quốc và Ấn Độ đã để lại những bài học quý giá về việc huy động lực
lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp cách mạng.
Những kết luận trên đã giúp
Người chuẩn bị những nhân tố cần thiết, những kinh
nghiệm để huy động, tập hợp lực lượng quần chúng cho việc lãnh đạo nhân dân
Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng của mình.
3.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; nhân dân là người sáng tạo lịch sử, giai
cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc; liên minh
công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn
liền với đoàn kết quốc tế, …
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ
ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lênin cho rằng: sự liên
kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân là hết sức cần thiết,
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng
tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức
giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Hồ Chí Minh
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin vì nó đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp
bức con đường tự giải phóng, chỉ ra sự cần thiết và con đường tập
hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và
trên toàn thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đề quốc, thực dân.
Hồ Chí Minh đã sớm nắm
được nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, qua đó, Người đã có
cơ sở khoa học để đánh giá chính xác các yếu tố tích cực cũng như
những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp
lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách
mạng lớn trên thế giới, những bài học rút ra từ các cuộc cách mạng
các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của Người về
đại đoàn kết dân tộc.
II.
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng
Chiến lược đại đoàn kết là
chiến lược vận động, tập hợp mọi lực lượng nhân dân, nhằm hình thành sức mạnh
to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai
cấp. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết thành chân lí: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng
ta”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết
là thắng lợi”, “Đoàn kết là then chốt của
thành công”,…
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập
hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau. Người cho rằng: Đại
đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng, và đoàn kết phải luôn được nhận thức
là vấn đề sống còn của cách mạng:
Đoàn kết không phải là thủ đoạn
chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quyết định thành công
cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Cách mạng
muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân
tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ
chặt chẽ, quy mô của đoàn kết quyết định quy mô,mức độ của thành công.
2.
Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng mà sức mạnh của Đảng là sức mạnh của khối
đoàn kết giữa các thành viên. Vì vậy, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân để củng
cố khối đại đoàn kết trong các tổ chức chính trị xã hội nói chung. Hồ Chí Minh
cho rằng: Vấn đề đoàn kết phải được quán triệt từ chủ trương, đường lối, chính
sách cho đến những hoạt động thực tiễn của Đảng, luôn là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng.
Về mục tiêu của Đảng, tại Đại
hội lần thứ hai năm 1951, Người chỉ ra: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ
là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
Từ đó, Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những
đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con
người.
3.
Đại đoàn kết dân tộc là để thực hiện khối đoàn kết toàn dân
“Dân” vừa
được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người
Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân nước Việt, con Rồng, cháu Tiên,
không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, tín ngưỡng,… Như
vậy, “dân” được
hiểu là chủ thể, là đối tượng, là lực lượng của đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở
thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa là không chỉ huy động lực
lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong toàn lãnh thổ Việt Nam mà còn
huy động tập hợp lực lượng những người Việt Nam đang sinh sống và định cư ở
nước ngoài vào khối đại đoàn kết dân tộc.
Muốn thực hiện đại đoàn kết
toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân
tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác định khối đại
đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu
vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công – nông – lao động trí óc
làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc
thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không thế lực nào có thể làm
suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
4.
Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự lãnh đạo
của Đảng
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh
thì quần chúng nhân dân phải được tổ chức mới tạo thành sức mạnh vật chất. Quy
tụ quần chúng nhân dân vào một tổ chức yêu nước phù hợp với từng bước phát
triển của phong trào cách mạng là sự quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
Tổ chức thể hiện sức mạnh của
khối đại đoàn kết là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đó là một tổ chức chính trị
rộng rãi tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,
các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài ngước, phấn đấu vì mục tiêu
độc lập, thống nhất của tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Mặt trận Dân tộc thống nhất
được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc:
Thứ nhất, Mặt
trận Dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ đó, Mặt trận được mở rộng và thực sự quy
tụ cả dân tộc, tập hợp toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ hai, Mặt
trận Dân tộc thống nhất hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc
thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân
làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ
quốc độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì
vậy, phải làm cho mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và
trước hết.
Thứ ba, đoàn
kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ. Đó là sự đoàn kết chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân, các đảng phái,
đoàn thể, … trong Mặt trận, thực hiên hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh
là: “Cầu
đồng tồn dị” – lấy cái chung, đề cao
cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Về vị trí của Đảng Cộng sản
trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống
nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân ngày càng vững chắc.
Đảng vừa là Đảng của giai
cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Đại bộ phận nhân dân Việt Nam coi Đảng cộng sản là Đảng của
mình. Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải vừa là đạo đức, vừa là
văn minh, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và
thời đại, phải thực sự đoàn kết nhất trí.
Là tổ chức chính trị to
lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bộ phận tham mưu của
giai cấp công nhân và của cả dân tộc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt
trận dân tộc thống nhất, đồng thời cũng là một thành viên của mặt
trận. Quyền lãnh đạo mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình mà
là được nhân dân thừa nhận.
Muốn lãnh đạo Mặt trận,
lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng phải thực sự đoàn
kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng
đoàn kết toàn dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự
đoàn kết của dân tộc càng được tăng cường. Phải đoàn kết chặt chẽ
giữa đồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời
sống xã hội hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
5.
Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Hồ Chí Minh đã xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được
thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế
giới. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới, các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng
tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế giới. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công 3 tầng Mặt trận: Mặt trận Đại đoàn
kết dân tộc; Mặt trận Đoàn kết Việt – Miên – Lào và Mặt trận Nhân dân thế giới
đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ, là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết.
III.
Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Đại đoàn kết dân tộc là tư
tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta.
Tư tưởng này có nhiều giá trị biểu hiện tập trung ở những điểm sau:
Đoàn kết là bài học hàng đầu có
tính chiến lược, quyết định mọi thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó
khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ thì thất bại.
Đoàn kết phải có nguyên tắc. vì
mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất
thời.
Đoàn kết trong tổ chức, thông
qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không
tách rời nhau.
Đoàn kết phải có nội dung thích
hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách
tập hợp các tầng lớp nhân dân.
Đoàn kết đi liền bao dung, thực
hiện nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn
kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân
tộc.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân phải xây dựng khối đại đoàn kết trong Đảng.
Thực hiện đồng bộ đoàn kết
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết trong mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi
thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, thế giới.
KẾT
LUẬN
Đại hội XI của Đảng ta xác
định: “Hơn
bao giờ hết cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ,
thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích
chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng
thuận xã hội”.
Hiện nay, hơn bao giờ hết
phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại
đoàn kết trong tình hình mới. Qua hơn một phần tư thế kỷ thực hiện
công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước
hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố
quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị
của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀO XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN
DÂN HIỆN NAY
1.Giáo dục nâng cao nhận
thức về tính cấp thiết xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc, từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Điều này đã trở thành truyền thống quý báu của Đảng và nhân
dân ta, tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Tuy nhiên, “khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những
thách thức mới”[11].
Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận dân chưa vững chắc, việc
tập hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hộ còn nhiều hạn
chế.
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn
cách mạng hiện nay là phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh. Trong khi đó, những tác động tiêu cực từ tình hình kinh
tế xã hội, sự chống phá của kẻ thù đang ảnh hưởng không nhỏ tới xây dựng và
phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay có những quan niệm muốn thu hẹp
hoạt động của Mặt trận, bài bác, chê bai một số việc làm của Mặt trận, thực
chất là muốn hạ thấp vai trò của Mặt trận, xem nhẹ tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Đảng và Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách để chia rẽ,
phân hóa, gây nên tình trạnh đối đầu giữa các bộ phận dân cư để phá ta từ bên
trong, khi cần thì dùng lực lượng từ bên ngoài để can thiệp hỗ trợ. Thủ đoạn
của chúng hết sức tinh vi, thâm độc. Nhất là, chúng lợi dụng vấn đề dân chủ,
nhân quyền, tôn giáo để chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lợi dụng các khó khăn, yếu kém trong
quản lý của các cấp chính quyền, bịa đặt, vu khống tung tin thất thiệt... nhằm
làm cho người dân nghi ngờ, nghi kỵ và xung đột lẫn nhau. Trong không ít trường
hợp, người dân rất khó phát hiện ra âm mưu, thủ đoạn của chúng, vô tình mắc mưu
của kẻ xấu, làm suy giảm khối đại đoàn kết toàn dân. Về phía chúng ta, việc tập
hợp xây dựng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc còn nhiều hạn chế,
nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số... Một số
cấp ủy, cán bộ đảng viên còn hẹp hòi, định kiến với những người ngoài đảng,
người làm kinh tế tư nhân.
Xuất phát từ thực tế, cả về mặt khách quan và nhân tố
chủ quan cho thấy cần phải tăng cường giáo dục để nâng cao nhận thức của cán bộ
và nhân dân về sự cần thiết phải tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Quán triệt và thực hiện
tốt những chủ trương, biện pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình
hình mới.
Trong tình hình hiện nay, để tiếp tục phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa Nghị quyết
đại hội lần thứ IX, X của Đảng, Nghị quyết TW 7 (khóa IX) về “phát huy sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh” vào cuộc sống, cần thực thi mạnh mẽ, có hiệu quả những chủ trương biện
pháp chủ yếu sau:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân
tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của
Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân
trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
Ba là, xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm
công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp
của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thực hiện dân
chủ gắn liền với tăng cường, đẩy mạnh chống các tiêu cực trong Đảng, Nhà nước và
xã hội để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp
nhân dân, nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Năm là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng
cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong
trào thi đua yêu nước.