Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018


Câu 2:
TRÌNH BÀY NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
Khái niệm: Như bất kỳ một tổ chức chính trị nào khác, sự tồn tại và phát triển của ĐCS cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản. Đối với ĐCS, nguyên tắc sống còn, cơ bản nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, trong đó, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. 
a. Tập trung dân chủ là tất yếu khách quan, nguyên tắc cơ bản của Đảng
Chế độ tập trung dân chủ dựa trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của phong trào vô sản. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, giai cấp vô sản phải đương đầu với một kẻ thù có tổ chức, bộ máy nhà nước hùng mạnh là giai cấp tư sản. Muốn chiến thắng, giai cấp vô sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đoàn kết thống nhất và phải thành lập chính đảng của mình. Mác, Ăng nghen và Lênin đã xây dựng, luận chứng và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tất yếu trong xây dựng và hoạt động của đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Đảng.Người chỉ rõ Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, do đó, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng. 

Như vậy, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản, là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đây cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động, tổ chức sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nguyên tắc này đảm bảo cho sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của một đảng cách mạng chân chính. 

Tập trung dân chủ là thể hiện bản chất giai cấp công nhân của ĐCS. Nó có tác dụng phân biệt chính đảng của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác. Có thể khẳng định, tập trung dân chủ là nguyên tắc có tính chuẩn mực, là thước đo tính đảng của đảng viên. 

Phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận ĐCS từ bản chất. Xoá bỏ nguyên tắc này là phá hoại sức mạnh của ĐCS từ gốc. Xoá bỏ nguyên tắc này tất sẽ sa vào bệnh đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, từ đó dẫn đến sự phân liệt trong Đảng, làm cho xã hội phân tâm, lòng người ly tán, rối loạn, mất ổn định chính trị. Kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế và hoạt động của Đảng ta cho thấy, chỉ có duy trì và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thì Đảng mới không tan vỡ về tổ chức. Sự tan rã và sụp đổ của ĐCS Liên Xô và các ĐCS ở các nước Đông Âu đã chỉ rõ, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phải trả một giá rất đắt và là sai lầm không thể sửa chữa được. 
b. Nội dung, bản chất của nguyên tắc TTDC
Trên cơ sở quán triệt nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM về nguyên tắc tập trung dân chủ, rút kinh nghiệm từ những bài học gần đây của các đảng anh em và qua hoạt động thực tiễn, Đảng ta chỉ rõ, “ĐCS VN tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được thể hiện cụ thể tại Điều 9, Điều lệ ĐCS VN thông qua ngày 22/4/2001 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

- Theo nguyên tắc này, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. 

- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là BCH Trung ương, ở mỗi cấp là BCH đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).

- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo các hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.

- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng đại hội đại biểu toàn quốc và BCH Trung ương.

- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.

Hiện nay một số người cho rằng chúng ta nên từ bỏ nguyên tắc này vì cho rằng nó sai lầm, quan liêu, độc đoán, mất dân chủ của một số người lãnh đạo ở một số nước và lợi dụng sự tan rã của các ĐCS. Song nguyên nhân của tình trạng đó là hiểu và thực hiện sai nguyên tắc này trên cơ sở chủ ngiã Mác-Lênin.
Bản chất (Mối quan hệ)
Như đã đề cập ở trên, nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, trong đó, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.

Nguyên tắc tắc trung dân chủ trong ĐCS nói chung và Đảng ta nói riêng bao giờ cũng là sự kết hợp hài hoà giữa tập trung và dân chủ; hai mặt này có mối quan hệ biện chứng (ràng buộc, phụ thuộc, tác động và bổ sung cho nhau) với nhau tạo thành một chính thể thống nhất không thể tách rời. Sự thống nhất này không phải là ngẫu nhiên, mà nó được qui định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi nhiệm vụ của ĐCS trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh đó cho đến thắng lợi cuối cùng.

Tập trung có nghĩa là, ĐCS phải có một cương lĩnh cách mạng chung, trong đó, nêu lên mục tiêu của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán triệt thực hiện. Có nghĩa là, trong Đảng phải có một Điều lệ thống nhất, thể hiện những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng mà tất cả các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải tuân theo. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các tổ chức Đảng, các công tác của Đảng do một trung tâm thực hiện là đại hội đại biểu toàn quốc và trong thời kỳ giữa hai đại hội là BCH TW Đảng. Các nghị quyết của đại hội và của BCH TW Đảng với tính cách là biểu hiện ý chí của toàn Đảng, bắt buộc tất cả các tổ chức và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tập trung đòi hỏi phải có kỷ luật thống nhất, phải tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng, có ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Do đó, tập trung trong Đảng không những là uy quyền của tư tưởng mà còn là uy quyền của quyền lực do các cơ quan Đảng và những người lãnh đạo các cơ quan đó thể hiện. Đó là việc thừa nhận sức mạnh về sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Xét trên phạm vi tổng thể, tập trung là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của ĐCS; ở một giác độ hẹp hơn, nó là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.

Nếu không có dân chủ trong Đảng, thì sự tồn tại của ĐCS sẽ trở nên vô nghĩa, vì đây là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập. Sức mạnh của Đảng là do tính tích cực tự giác của toàn thể đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự giác thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới có điều kiện rèn luyện và giáo dục đảng viên, mới phát huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối, chính sách và nghị quyết Đảng. Như Lênin đã xác định, bản chất dân chủ trong Đảng là tất cả mọi công việc của Đảng đều được tất cả đảng viên bình quyền tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn. Như vậy, dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là sự tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào việc quản lý công việc của Đảng một cách trực tiếp hay thông qua những đại biểu của họ, vào việc vạch ra đường lối, chính sách cũng như thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, tính kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất của Đảng thì đảng viên mới có thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Nói như thế có nghĩa là, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung.

Trong sinh hoạt và tổ chức mọi hoạt động của Đảng, mọi tổ chức Đảng và đảng viên cần tránh hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ là một phép cộng số học thuần tuý giữa hai khái niệm tập trung và dân chủ, mà phải hiểu đây là một thực thể, một chỉnh thể thống nhất gồm hai thành tố tập trung và dân chủ. Tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng không đối lập nhau, mà chúng có tác động hỗ trợ qua lại nhằm tạo ra sức mạnh thống nhất trong Đảng. Dân chủ chỉ đối lập với thứ tập trung mang tính quan liêu, gia trưởng và độc đoán chuyên quyền.

Tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng cũng không được hiểu một cách tách biệt đâu là mục tiêu đâu là động lực, mà nó phải được hiểu vừa là mục tiêu, vừa là động lực nhằm tạo cho Đảng một sức mạnh vô địch một ý chí thống nhất tạo sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân xây dựng thành công CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

Tựu trung, trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tất cả các cơ quan của Đảng và toàn thể đảng viên phải luôn giải quyết vấn đề trên cơ sở nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ, phải luôn xem đây là một chỉnh thể thống nhất không được tách rời, không nên xem nhẹ mặt này hay coi nặng mặt kia cũng như không được tuyệt đối hoá mặt nào. Việc tuyệt đối hoá tập trung sẽ kìm hãm tính năng động, sáng tạo và tự giác của đảng viên, dẫn đến chuyên quyền, độc đoán và chủ quan duy ý chí. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá dân chủ sẽ biến tổ chức Đảng thành một câu lạc bộ, không tập trung được ý chí thống nhất của Đảng, không tạo ra được sức mạnh tập thể và dễ rơi vào tình trạng dân chủ vô tổ chức. Lịch sử quá trình sụp đổ của ĐCS LX và các nước XHCN Đông Âu cũng như thực tế cách mạng Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đã chứng minh vị trí, vai trò và tầm quan trọng trong việc nhận thức đúng và thực hiện đúng nguyên tắc xương sống của ĐCS - nguyên tắc tập trung dân chủ.
c. Thực hiện nguyên tắc trong giai đoạn hiện nay
Ngày nay, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, vì vậy, đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo và đi tiên phong trong công cuộc đổi mới và bản thân Đảng phải luôn tự đổi mới, tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thích ứng với nền kinh tế và cơ chế thị trường định hướng XHCN. Những chuyển biến tích cực trong thực hiện nguyên tắc này:

Mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đều được thảo luận và lấy ý kiến của đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng từ cơ sở trở lên; Sinh hoạt của các cấp uỷ và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ hơn; dân chủ trong đảng và dân chủ bên ngoài xã hội có bước khởi sắc, việc bầu cử có chuyển biến tích cực; công tác đánh giá, tuyển chọn, đề bạt cán bộ được tiến hành công khai, dân chủ, tập thể hơn; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã có sự chuyển biến rõ rệt trong đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế.

Tuy nhiên, cũng còn những mặt yếu kém mà Đại hội IX đã chỉ rõ: Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành còn nhiều bất cập, thiếu kiểm tra đôn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Nhiều nhiệm vụ công tác lớn đã được đề ra nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn hoặc chỉ nói mà không làm. Nhiều cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm pháp luật và điều lệ Đảng chưa được xử lý thật kiên quyết.

Ngoài ra, không ít cấp uỷ và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của đảng viên; trong sinh hoạt còn thiếu cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ; hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra; trong khi tình trạng m ất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật còn không ít; tệ bè cánh, mất đoàn kết còn xảy ra, thậm chí một số nơi nghiêm trọng; một số cấp uỷ, cán bộ, đảng viên còn hữu khuynh trong đấu tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai trái; vẫn còn tình trạng ô dù… gây bất bình trong Đảng và nhân dân.

Do đó, để thực hiện được nguyên tắc này, cần phải có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời có cơ chế đảm bảo thực hiện nội dung đó.

Trong công tác cán bộ, cần quy định cụ thể tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ. Việc giới thiệu người để bầu vào cấp uỷ phải được tiến hành từ cơ sở. Bổ nhiệm cán bộ phải hỏi ý kiến và lấy phiếu ý kiến từ cơ sở. Việc đánh giá cán bộ nhất thiết phải hỏi ý kiến cấp quản lý cán bộ, quần chúng và cấp dưới, cùng những người có quan hệ, có hiểu biết về cán bộ cũng như đối thoại trực tiếp với cán bộ đó. Quy định thành chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp xuống làm việc trực tiếp ở cơ sở và tiếp xúc với dân, đối thoại với quần chúng và cấp dưới, giải quyết kịp thời công việc cấp bách ở cơ sở có hiệu quả.

Để làm được điều đó thì cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, các cơ quan kiểm tra, giám sát phải tích cực hoạt động.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nó đảm bảo cho sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của một đảng cách mạng. Đây là nguyên tắc phân biệt chính đảng của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng khác. Đây cũng là điểm mà mọi thế lực chống đối thường công kích nhằm phá hoại Đảng và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng cộng sản, nó chỉ đạo toàn bộ hoạt động lãnh đạo, sinh hoạt, tổ chức bộ máy, phong cách lãnh đạo - đây là vấn đề nằm ngay trong bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản. Vì vậy, tập trung dân chủ là nguyên tắc có tính chuẩn mực, là tiêu chí để phân biệt một tổ chức đảng chân chính với một đảng cơ hội khác, đồng thời là thước đo tính đảng của đảng viên. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất, xóa bỏ nguyên tắc này là phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc, xóa bỏ nguyên tắc này sẽ sa vào cái bẫy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Từ đó dẫn tới sự phân liệt trong Đảng, làm cho xã hội phân tâm, rối loạn, mất đi sự ổn định chính trị. Kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế và hoạt động của Đảng CSVN cho thấy rằng chỉ có thể duy trì và thực hiện đúng nguyên tắc này thì Đảng mới không tan rã về tổ chức.
Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ: 
Chế độ tập trung dân chủ dựa trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của phong trào vô sản. Chính vì địa vị của giai cấp công nhân trong một nền sản xuất gắn liền với đại sản xuất cơ khí, nên họ hướng tới tổ chức và tập trung lực lượng cách mạng. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, giai cấp vô sản phải đương đầu với một kẻ thù có tổ chức, có bộ máy nhà nước hùng mạnh là giai cấp tư sản. Muốn chiến thắng, giai cấp vô sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đoàn kết thống nhất và phải thành lập chính đảng của mình. Mặt khác, xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân có tính dân chủ rộng rãi, quan hệ giai cấp của họ là quan hệ bình đẳng. Và sau khi chiến thắng chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân tạo điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động - số đông trong xã hội, có thể phát huy tính tích cực, chủ động tham gia rộng rãi vào mọi hoạt động xã hội.

Nguyên tắc tập trung dân chủ có tính khách quan, bởi vì, tập trung là yếu tố phổ biến của mọi kiểu tổ chức trong đó có Đảng cộng sản và giai cấp công nhân, tập trung là yếu tố khách quan, đó là yếu tố cần thiết của mọi tổ chức con người, của tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự... và cho đến ngay cả một đội bóng đá cũng cần phải có tập trung vì nếu không sẽ tan rã về mặt tổ chức. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, lịch sử loài người trải qua bao nhiêu kiểu chế độ xã hội thì có bấy nhiêu kiểu tập trung. Với chế độ xã hội chủ nghĩa thì tập trung đó là tập trung quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nói về điều này, Lênin đã từng nói: nếu không có thiểu số phục tùng đa số thì không có tổ chức.

Đảng cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là tổ chức có khả năng thực hiện tập trung cao bởi vì, mọi hoạt động của ĐCS đều xuất phát từ lợi ích chung, cơ sở tư tưởng chung, mục đích chung và vai trò địa vị chung. Nếu không có một trung tâm lãnh đạo thống nhất, một cơ quan trung ương thống nhất thì không thể tồn tại một sự thống nhất thực sự ở trong Đảng, sứ mệnh lịch sử của ĐCSVN bắt nguồn từ sự thống nhất về chính trị, về tư tưởng, về tổ chức...

Nguyên tắc tập trung dân chủ có tính biện chứng (hay là tính thống nhất giữa tập trung và dân chủ). Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong xây dựng, trong tổ chức, trong sinh hoạt và trong hoạt động của ĐCS.

Tập trung, đó là sự liên minh tự nguyện của những người cộng sản thành một tổ chức có lãnh đạo và kỷ luật thống nhất, tập trung ở đây xét ở những góc độ:

Thứ nhất, Đảng với tư cách là một tổ chức thống nhất về ý chí, trí tuệ, hành động và lý luận. Về điều này, Bác Hồ đã từng nói: Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ là một người. Tập trung tạo nên sức mạnh của Đảng, không có tập trung thì sức mạnh của Đảng sẽ mất đi. 

Thứ hai, tập trung trong Đảng bao gồm ba nội dung chính sau: Đảng phải có một cương lĩnh điều lệ thống nhất; Đảng phải có một trung tâm lãnh đạo thống nhất - có nghĩa rằng sự lãnh đạo của Đảng phải từ một trung tâm và do một trung tâm thực hiện, nghĩa là việc lãnh đạo các tổ chức Đảng, các công tác Đảng đều do một trung tâm thực hiện. Đảng phải có một kỷ luật thống nhất (không có trường hợp ngoại lệ). Như vậy, tập trung trong Đảng là tập trung ở 3 nội dung này, tập trung trong Đảng là quyền lực của đa số. Chính sự thừa nhận sự lãnh đạo duy nhất của Đảng là điều kiện cần thiết để Đảng tồn tại hoạt động và phát triển.

Thứ ba, tập trung trong Đảng nó có giới hạn của nó (giới hạn chứ không phải là hạn chế). Tập trung phải là tập trung trong khuôn khổ điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tập trung phải gắn với chế độ dân chủ tập thể - đó là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập trung đó là tập trung trong một điều kiện về kinh tế xã hội cho phép. Tập trung được giới hạn trong điều kiện năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ đảng viên. Nếu vượt quá những giới hạn này sẽ trượt sang tập trung quan liêu, độc đoán chuyên quyền, do vậy, quyền trong Đảng luôn có giới hạn. Và nếu tập trung trong Đảng không có giới hạn thì quyền uy không được kiểm soát sẽ tất yếu tạo ra sự lộng quyền, chuyên quyền, độc đoán.

Dân chủ, đó là quyền làm chủ của người đảng viên. Người đảng viên là cá nhân cao nhất ở trong Đảng, quyền của đảng viên được ghi rõ trong điều lệ Đảng. Đảng cộng sản tồn tại sẽ không có ý nghĩa nếu không có dân chủ trong Đảng. Đây là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập, sức mạnh của Đảng là do tính tích cực tự giác của toàn thể đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự giác thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới phát huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng. Lênin đã xác định bản chất của dân chủ trong Đảng là: Tất cả mọi công việc của Đảng đều được toàn thể các đảng viên bình quyền tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình quyết định; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn.

Dân chủ trong Đảng cũng phải có giới hạn của nó, đó là, dân chủ cũng phải tuân thủ theo quy định trong điều lệ Đảng; dân chủ cũng phải gắn với chế độ tập trung có lãnh đạo, định hướng và giai cấp; dân chủ được đặt trong điều kiện chính trị - kinh tế, văn hóa, xã hội... cho phép; dân chủ cũng phụ thuộc vào trình độ đội ngũ đảng viên; dân chủ cũng phải tương quan với cuộc đấu tranh giai cấp trong nước và quốc tế. Nếu vượt quá giới hạn này, nó sẽ trượt sang dân chủ vô chính phủ và dân chủ hỗn loạn, do vậy, dân chủ trong Đảng cũng phải có giới hạn của nó, nếu không sẽ tan rã về mặt tổ chức.

Như vậy, thực chất dân chủ trong Đảng là phát huy quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là sự tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào công việc của Đảng một cách trực tiếp, hay thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch ra đường lối, chính sách, vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hòa giữa hai mặt tập trung và dân chủ, tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Đó là bản chất của nguyên tắc này. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Về vấn đề này, Lênin đã viết: Trên báo chí của chúng tôi, chúng tôi luôn luôn bảo vệ dân chủ trong nội bộ đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ phản đối chế độ tập trung của Đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ. Do đó, đối với một đảng mácxít - lêninít, trừ những hoàn cảnh riêng biệt của các giai đoạn cách mạng, dân chủ và tập trung phải được coi trọng như nhau, tuyệt đối hóa một mặt nào đều có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng.

Tóm lại, tập trung và dân chủ cả hai đều là định tính chứ không phải là định lượng. Vấn đề quan trọng là áp dụng nó trong thực tế như thế nào cho phù hợp và cho đúng. Về vấn đề này, Lênin nói: phải có tính sáng tạo của nguyên tắc này được xác định bởi điều kiện đấu tranh giai cấp, hoàn cảnh lịch sử và mức độ trưởng thành về chính trị của cán bộ, đảng viên./
ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
 (LLCT) - Trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH.
1. Nội dung, phương thức cầm quyền của đảng
Nội dung cầm quyền của đảng là những vấn đề lớn của đất nước mà đảng đưa ra và thực hiện nhằm duy trì vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội. Nội dung cầm quyền của đảng cộng sảnđối với nhà nước thể hiện không chỉ ở việc thiết lập các cơ quan nhà nước, mà còn xây dựng và hoàn thiện mối quan hệ, cơ chế hoạt động của các cơ quan đó. Sự lãnh đạo của đảng cộng sản bảo đảm cho nhà nước xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân định rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, các cấp chính quyền, hoạt động có kỷ luật, kỷ cương, các thủ tục hành chính gọn nhẹ, đội ngũ công chức chuyên nghiệp, tận tụy phục vụ nhân dân.
Khi đảng đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương của đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, đảng lãnh đạo chính quyền thể chế hoá đường lối, chủ trương của đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Thực chất của đảng cầm quyền là: đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Phương thức cầm quyền của đảng là khoa học về những nguyên tắc hành động chính trị của một đảng, về các phương pháp vạch ra con đường và cách thức đạt đến mục đích cuối cùng của Đảng. Đó là đường lối chính trị của Đảng, đường lối đó được hình thành trên cơ sở phân tích một cách khoa học các giai đoạn đấu tranh cách mạng do đảng lãnh đạo.
Trên cơ sở hiến pháp, đảng cộng sản cầm quyền xác định các nguyên tắc cơ bản định hướng xây dựng cơ cấu bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, để các cơ quan nhà nước đủ năng lực thực hiện được quyền lực mà nhân dân uỷ quyền. Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản cầm quyền, nhà nước thiết lập bộ máy vững mạnh, trong sạch để thực sự có quyền lực và thực thi được quyền lực nhà nước. 
Để bảo đảm được vai trò cầm quyền của đảng đối với xã hội, đảng phải có quyền uy; không có quyền uy thì không thể lãnh đạo được. Để có được quyền uy, đảng phải có uy tín. Uy tín cũng là một loại quyền uy. Loại quyền uy này có vai trò quyết định sinh mệnh chính trị của đảng. Đảng cầm quyền nào cũng có quyền uy, nhưng không phải tất cả các đảng cầm quyền đều có uy tín đối với giai cấp và toàn xã hội.
Năng lực lãnh đạo của đảng cộng sản cầm quyền
Năng lực lãnh đạo của một đảng cộng sản cầm quyền được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, năng lực nhận thức được quy luật phát triển khách quan và khả năng vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước để đề ra chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn. Bên cạnh đó, đảng phải có năng lực chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn đảng, toàn dân.
Thứ hai, năng lực thể chế hoá, cụ thể hoá chủ trương, đường lối của đảng thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước, phản ánh được ý chí, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, năng lực lãnh đạo nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội trong việc vận động, tập hợp quần chúng trong thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối do đảng đề ra. Đây thực chất là năng lực lãnh đạo nhà nước - công cụ chủ yếu, mạnh mẽ nhất để bảo đảm sự lãnh đạo của đảng đối với toàn xã hội. Do đó, đảng phải xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh; có tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, năng lực kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của hệ thống chính trị; kịp thời phát hiện và xử lý đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn để rút kinh nghiệm.
Thứ năm, năng lực phát hiện, đấu tranh để khắc phục sự suy thoái, biến chất và những tiêu cực ở trong đảng, trong xã hội và sự chống phá của các thế lực phản động, thù địch.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền, đảng phải đồng thời nâng cao cả năm năng lực nêu trên, trong đó, việc nâng cao năng lực hoạch định chiến lược, đề ra đường lối chính trị đúng đắn và xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh, nhà nước của dân, do dân và vì dân là quan trọng nhất.
2. Đổi mới nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng ta trong điều kiện mới
Để xứng đáng là một Đảng Cộng sản cầm quyền chân chính, trong thời gian tới Đảng ta cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức cầm quyền:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ cách ra nghị quyết và thể chế hóa quan điểm, đường lối (thông qua các nghị quyết) của Đảng thành các chính sách, chiến lược, dự án, chương trình công tác lớn của Nhà nước. Cần phải coi đây là một trong những thước đo năng lực lãnh đạo của cấp ủy, của người đứng đầu cấp ủy. Giảm thiểu việc ra nghị quyết, cấp ủy dành nhiều thời gian hơn để đánh giá, bàn bạc, chỉ đạo hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nếu cần ra nghị quyết mới thì phải bảo đảm tính ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, không dung hòa ý kiến, dễ nhớ, dễ thống nhất. Khắc phục bệnh hình thức, quan liêu trong xây dựng chính sách. Chỉ đạo quyết liệt các cơ quan nhà nước xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Đảng, khắc phục tình trạng chậm triển khai, hoặc triển khai hình thức, vận dụng không đúng quan điểm của nghị quyết.
Thứ hai, đổi mới, kiện toàn một số khâu trong công tác tổ chức cán bộ.Đảng phải trực tiếp chỉ đạo, bố trí công tác cán bộ chủ chốt của Nhà nước. Cấp ủy giữ quyền lãnh đạo, giới thiệu cán bộ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cấp ủy không quyết định trước, mà chỉ nêu yêu cầu, tiêu chuẩn để cơ quan nhà nước giới thiệu. Cấp ủy và cơ quan nhà nước phải làm việc, trao đổi nhiều lần cho kỹ càng để có phương án tốt nhất. Cuối cùng, cấp ủy quyết định giới thiệu để cơ quan nhà nước tiến hành bầu cử hoặc bổ nhiệm, bãi nhiệm theo thủ tục pháp luật.
Đẩy mạnh kiện toàn các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối theo hướng: Chỉ thành lập ban cán sự đảng ở một số nơi rất quan trọng đối với Đảng; xây dựng Quy chế xử lý mối quan hệ giữa ban cán sự đảng và đảng ủy cơ quan. Khắc phục tình trạng cồng kềnh, chồng chéo giữa các tổ chức đảng cấp trên với các tổ chức đảng cấp dưới.
Tiếp tục đổi mới bộ máy các cơ quan tham mưu của Đảng. Bộ máy tham mưu của các tổ chức đảng phải có chất lượng cao, có năng lực nghiên cứu chính trị, năng lực phân tích, tổng kết, đưa ra được những kiến nghị ở tầm đường lối, chính sách với những quan điểm chính trị, quan điểm vĩ mô về các lĩnh vực. Các ban đảng chỉ tập trung tham mưu về lãnh đạo chính trị, không bị chi phối bởi vấn đề quản lý, hay chỉ đạo cụ thể việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ Ban Đảng phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt, trình độ lý luận chính trị cao, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý, có năng lực nghiên cứu ở tầm vĩ mô. Đây là những người hoạt động chính trị, chuyên gia giỏi về hoạch định chính sách, phải có trình độ nghiên cứu cao hơn cán bộ của các cơ quan nhà nước.
Để đạt được mục tiêu đó, Đảng phải có chính sách phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Phải tìm, lựa chọn từ các đơn vị những cán bộ có năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất chính trị tốt, không bị chi phối bởi lợi ích vật chất hay áp lực từ bất kỳ ai. Phải có cơ chế ưu đãi đặc thù về vật chất và tinh thần để họ yên tâm cống hiến và bảo đảm khách quan, công tâm trong tham mưu chính sách.
Phát động và phát huy tinh thần tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.Cán bộ, đảng viên làm việc trong hệ thống chính trị không chỉ phải tiên phong, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ được giao, mà còn phải hướng dẫn, động viên, khích lệ nhân dân làm theo. Trong giai đoạn hiện nay, người dân đòi hỏi đảng viên phải tiên phong trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, phải gương mẫu thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chỉ khi đảng viên “nói đi đôi với làm”, nhân dân sẽ tin và làm theo.
Thứ ba, phải nâng cao uy tín, tính thuyết phục của Đảng trước nhân dân. Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội chủ yếu bằng sự thuyết phục chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính. Nhân dân tin Đảng và đi theo Đảng cũng bởi uy tín, niềm tin, khả năng thuyết phục của Đảng đối với xã hội. Sức thuyết phục đó được biểu hiện bằng đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, qua đội ngũ đảng viên, bằng trí tuệ và uy tín của Đảng mà biểu hiện tập trung ở Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương... Hiện nay, trình độ dân trí cao hơn nhiều so với trước đây, chỉ khi có đội ngũ đảng viên ưu tú, Đảng mới đủ sức lãnh đạo nhân dân. Đảng phải nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn.Trình độ trí tuệ của Đảng biểu hiện thông qua năng lực lãnh đạo đất nước. Đó là sự kết hợp chặt chẽ của năng lực tư duy; tri thức qua học tập, nghiên cứu; kinh nghiệm tổng kết thực tiễn, khả năng phát hiện cái mới. Chỉ khi đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng được tầm trí tuệ, trình độ lý luận mới khắc phục được bệnh chủ quan, duy ý chí.
Trong điều kiện hiện nay, một trong những tiêu chí đánh giá tính thuyết phục của Đảng là khả năng Đảng tạo ra được các phong trào đấu tranh chống tiêu cực, bảo vệ các nhân tố tích cực trong quần chúng nhân dânCách mạng là sự nghiệp của quần chúng,nếu quần chúng thờ ơ với sự nghiệp cách mạng thì Đảng không thể giữ vững vai trò lãnh đạo đất nước. Những “điểm nóng” xảy ra ở một số địa phương trong những năm gần đây đã chứng minh điều đó. Tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”, cuộc đấu tranh chống tham nhũng không đạt hiệu quả cao cũng là một trong những nguy cơ đối với Đảng ta với tư cách là đảng cầm quyền. Để tạo ra các phong trào quần chúng rộng lớn, đội ngũ đảng viên phải gương mẫu đi đầu, chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích tập thể và đất nước.
Thứ tư, cần đổi mới Đảng mạnh mẽ hơn nữa để vươn lên ngang tầm của một đảng cầm quyền trong thời kỳ đổi mới. Trước đây, với phương thức cầm quyền theo nguyên tắc: trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng phải đổi mới phương thức cầm quyền theo hướng: lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo nguyên tắc tập trung dân chủphát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đảng phải có tầm nhìn chiến lược, dự báo mọi diễn biến củatình hình thế giới để luôn giữ thế chủ động trong mọi tình huống. Tương ứng, mỗi tổ chức, cấp uỷ đảng hay cán bộ, đảng viên cũng phải tự giác rèn luyện, tự phấn đấu, nâng cao trình độ, năng lực để lãnh đạo đơn vị, địa phương hoàn thành nhiệm vụ được giao. Việc hoàn thành nhiệm vụ cách mạng ở một giai đoạn, một thời kỳ nhất định là tiêu chí đánh giá năng lực cầm quyền của Đảng.
Thứ năm, Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Nếu thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân, Đảng dễ bị sai lầm, chệch hướng, khó vượt qua thử thách, trở ngại để đưa đất nước đi lên CNXH. Đảng phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, tiếp thu những giá trị, tri thức của nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các đảng cộng sản trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi hoạt động gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, buông lỏng kỷ luật đều dẫn tới nguy cơ làm mất bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Cần tăng cường thành phần công nhân trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các cấp. Cấp ủy, cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp tiêu biểu cho bản lĩnh chính trị của Đảng và của mỗi tổ chức đảng, vì vậy phải tăng cường giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, quan điểm giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho họ; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tranh quyền, ham tiền, vụ lợi. Xây dựng cấp ủy các cấp thực hiện tốt vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị vững vàng.
Thứ sáu, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực chất, đó chính là nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng nhằm thực hiện đường lối đổi mới. Năng lực cầm quyền của Đảng cần phải dựa trên cơ sở khoa học, cả khoa học kinh tế, khoa học chính trị, khoa học tổ chức, khoa học lãnh đạo và quản lý…; và dựa trên cơ sở thực tiễn đổi mới đất nước và tình hình thế giới. Trong Đảng cần phải “nói đúng sự thật, nói rõ sự thật, nói hết sự thật”; bởi vì: sai lầm hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Đó là những sai lầm nghiêm trọng trong công tác xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công”(1). Phương châm cầm quyền của Đảng được thực hiện theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Song, điều cốt lõi hiện nay là phải mở rộng và thực hiện dân chủ. Không dân chủ thì không thể nắm vững tâm tư, nguyện vọng của dân, không thu hút được trí tuệ từ dân và chắc chắn nhân dân sẽ không thể tích cực tham gia đời sống chính trị - xã hội. Đây có thể coi là vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản trong phương thức cầm quyền của Đảng ta hiện nay.
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng còn là quyết tâm từ bỏ những tư tưởng bảo thủ, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, giữ vững mối liên hệ máu thịt với nhân dân, vững vàng trước mọi khó khăn thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi. Đây là bài học lớn nhất, cũng là vấn đề sống còn, có quan hệ đến sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước và sự tồn tại của Đảng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải bắt đầu từ việc thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng. Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng không thể giữ vững quyền lãnh đạo, bị suy yếu nhanh chóng, thậm chí biến chất và tan rã. Do vậy, phải kịp thời bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy trình để đảng viên được tham gia trực tiếp vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng. 
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi cấp thiết phải phòng chống nguy cơ thoái hóa, biến chất, suy thoái đạo đức, “tự diễn biến” từ bên trong. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy định của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng; phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của các phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội.
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực hiệu quả.
Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền bảo đảm cho Đảng không có sự cạnh tranh quyền lực, nhưng cũng là thách thức đối với Đảng ta do nguy cơ tha hóa quyền lực, mà biểu hiện cụ thể là sự độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng. Chính vì vậy, để củng cố vị trí và nâng cao năng lực cầm quyền, Đảng phải thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực. Trước hết, phải có cơ chế tự kiểm soát trong nội bộ Đảng. Phát huy vai trò, năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra đảng các cấp đối với tổ chức đảng và đảng viên, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những biểu hiện mơ hồ, dao động, những việc làm không đúng quy định Điều lệ Đảng, các quy chế, quy định của Đảng. Coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình liên quan đến các khâu của công tác cán bộ, do đây là việc làm phức tạp, nhạy cảm, dễ sinh ra các hiện tượng tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, không  bảo đảm chất lượng đội ngũ cán bộ, từ đó dẫn đến giảm sút năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Cùng với cơ chế tự kiểm soát của hệ thống chính trị, Đảng phải có cơ chế phát huy vai trò giám sát, phát hiện vấn đề của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội; của các tầng lớp nhân dân; thực sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến nhân dân; tiếp tục hoàn thiện những quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở. Xây dựng cơ chế để thẩm tra, xác minh những ý kiến phản ánh của nhân dân để Đảng tự “soi lại” các chủ trương, chính sách của Đảng. Thực hiện tự do, dân chủ, công khai trong bầu cử để lôi cuốn đông đảo nhân dân thực sự tham gia vào đời sống chính trị và lựa chọn đúng người đại diện cho mình. Những chính sách có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân như: xây dựng các công trình hạ tầng, phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, di dân và tái định cư…phải có tổ chức hoặc đại biểu của nhân dân giám sát quá trình ra chính sách, thực thi chính sách và kiểm tra đánh giá chính sách. Mở rộng thực hiện các loại hình dân chủ trực tiếp như: trưng cầu ý dân; triển khai có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Nghiên cứu quy định cụ thể về trưng cầu dân ý (đã quy định trong Hiến pháp 2013), lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân theo định kỳ đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt do dân bầu.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, năng lực cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của CNXH



Chuyên đề 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng như sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
2. Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động; bằng công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra; bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng.
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
3. Về hệ thống tổ chức và đảng viên của Đảng
Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, các tổ chức đảng được thành lập ở mọi nơi, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội từ trung ương đến địa phương và cơ sở.
a) Hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ghi rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc"1.
Như vậy, Đảng là một tổ chức bao gồm những đảng viên là những người xuất thân từ giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng kiểu mới nên Đảng được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chặt chẽ từ trên xuống dưới.
Hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng là hệ thống được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ cấp xã, phường, thị trấn; cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp Trung ương.
Như vậy, tại mỗi cấp hành chính nhà nước có các tổ chức đảng tương ứng:
- Ở cấp Trung ương có Trung ương Đảng.
- Ở cấp tỉnh có các đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Ở cấp huyện có các đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Ở cấp cơ sở có các tổ chức cơ sở đảng của xã, phường, thị trấn.
b) Hệ thống tổ chức đảng theo khối
Ngoài hệ thống tổ chức cơ bản, các tổ chức đảng còn được thành lập theo khối.
Trung ương lập một số đảng bộ khối trực thuộc Trung ương.
Đảng bộ khối trực thuộc Trung ương được tổ chức theo các đơn vị cùng ngành hoặc các ngành có quan hệ với nhau về nhiệm vụ chính trị được giao.
Các đảng bộ khối trực thuộc Trung ương bao gồm các đảng bộ của các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Các đảng bộ khối trực thuộc Trung ương có chức năng, nhiệm vụ tương đương như một đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Hiện nay, có hai đảng bộ khối trực thuộc Trung ương là Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương và Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương.
Các đảng bộ cấp trên cơ sở bao gồm các loại hình:
Các đảng bộ trong các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội. Đây là các đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương.
Các đảng bộ được thành lập trong các doanh nghiệp lớn, đông đảng viên, các tổ chức kinh tế... Đây là các đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Khối doanh nghiệp Trung ương.
Các đảng bộ khối thuộc đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có đảng bộ khối cơ quan tỉnh, thành phố, ở các tỉnh, thành phố có nhiều doanh nghiệp thì có đảng bộ khối doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn có các đảng bộ tương đương cấp huyện được thành lập ở một số nơi khác có đặc điểm riêng...
Ở cấp cơ sở, có các đảng bộ, chi bộ được thành lập tại các cơ sở là các tổ chức kinh tế, xã hội như cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp... trực thuộc các đảng bộ cấp trên cơ sở.
c) Hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam
Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo quy định tại Chương VI, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua).
Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam nhằm bảo đảm để Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam hoạt động theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Các ban của cấp ủy đảng theo chức năng giúp cấp ủy hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam.
Hiện nay, toàn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 đảng bộ tỉnh, 5 đảng bộ thành phố, 4 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Đảng có gần 1.300 đảng bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ cấp trên cơ sở).
Toàn Đảng có gần 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 23.000 đảng bộ cơ sở và hơn 33.000 chi bộ cơ sở; gần 1.700 đảng bộ bộ phận, hơn 254.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở với tổng số gần 3,8 triệu đảng viên, chiếm hơn 4% dân số của cả nước. Các tổ chức cơ sở đảng có năm loại hình cơ bản là: tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp; tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị sự nghiệp và tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang.
Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong 10 năm gần đây, số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các loại hình cơ sở tăng nhanh và chất lượng không ngừng được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình đã phát huy vai trò lãnh đạo và là hạt nhân chính trị ở cơ sở; có nhiều mô hình mới và điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Số lượng đảng viên trong những năm gần đây tăng nhanh, bình quân mỗi năm toàn Đảng kết nạp hơn 170.000 đảng viên mới, trong đó số đảng viên trẻ, là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chiếm hơn 65%; số đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng, làm cho tuổi bình quân của toàn Đảng giảm và cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số loại hình tổ chức cơ sở đảng có những thay đổi: tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn tăng lên do chia, tách hoặc thành lập mới; tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước giảm dần và tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần tăng lên do thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; một số loại hình tổ chức cơ sở đảng có sự thay đổi về quy mô, hình thức tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới; một số loại hình tổ chức cơ sở đảng mới ra đời và đi vào hoạt động.
II. THÀNH TỰU, NGUY CƠ VÀ CÁC BÀI HỌC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG  
1. Những thành tựu cơ bản của Đảng
Từ ngày thành lập (3-2-1930) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đưa đất nước tiếp tục quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã giành được trong hơn 80 năm qua đều gắn liền với quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 80 năm qua, với hơn 65 năm cầm quyền, trong đó có hơn 25 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; đất nước đã thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
2.Các nguy cơ của Đảng
Từ năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành "Đảng cầm quyền". Đảng cầm quyền vừa có mặt thuận lợi nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ đối với Đảng.
a)    Về Đảng cầm quyền
"Đảng cầm quyền" là khái niệm chỉ một đảng chính trị đang nắm giữ quyền lực nhà nước một cách công khai, chính thức và lãnh đạo chính quyền nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Đối với Đảng ta, khái niệm "Đảng cầm quyền" là để chỉ Đảng khi đã giành được chính quyền; cũng có nghĩa là Đảng lãnh đạo khi đã có chính quyền; Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Khái niệm "Đảng cầm quyền" lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ để nói về sự cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: "Đảng ta là một đảng cầm quyền". Trong Điều lệ Đảng được Đại hội XI của Đảng thông qua cũng khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền".
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền. Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng "cốt cán", thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để phát sinh, phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh...
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính quyền (Nhà nước) thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch... và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội.
Tuy nhiên, trong điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.
Trong quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản, việc tồn tại một đảng hay nhiều đảng ở mỗi nước là do những điều kiện lịch sử - cụ thể quy định, không có khuôn mẫu chung cho tất cả các nước, cũng như chung cho mọi giai đoạn, mọi thời kỳ trong phạm vi một nước. Ở Việt Nam từ giữa năm 1947 đến năm 1988, ngoài Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền, còn có hai đảng: Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam tham gia chính quyền, nhưng hai Đảng trên đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tháng 11 năm 1988 đến nay, trên chính trường Việt Nam chỉ còn lại duy nhất một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở Cuba, Lào cũng chỉ có một đảng cầm quyền. Ở Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền, còn tám đảng phái dân chủ khác, nhưng vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, v.v.. Vấn đề chủ yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm quyền một cách khoa học, dân chủ và theo pháp luật trên cơ sở giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
b)Thuận lợi và nguy cơ đối với Đảng cầm quyền
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi giành được chính quyền đến nay, nhất là lãnh đạo đất nước trong thời kỳ đổi mới và từ những bài học kinh nghiệm xương máu về sự đổ vỡ của các Đảng Cộng sản và Công nhân ở các nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp thời rút ra ba bài học kinh nghiệm cho mình. Là một Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng có nhiều thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có những nguy cơ tiềm ẩn cực kỳ nguy hại cần đề phòng.
Những thuận lợi cơ bản là:
-Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
-Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một công cụ đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội và có Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
-Qua hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân và cả dân tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng được nhân dân tin yêu, che chở, bảo vệ và gọi Đảng là "Đảng ta". 
-Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế; ngoài ra, Đảng còn có quan hệ với nhiều đảng cầm quyền khác trên thế giới; có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Tuy nhiên, sau khi trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vạch rõ những suy thoái của một số cán bộ, đảng viên và cảnh báo hai nguy cơ đối với một Đảng cầm quyền: một là, sai lầm về đường lối, hai là, sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh 1991), Đảng lại nhấn mạnh đến hai nguy cơ này và đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (năm 1994), Đảng đã bổ sung và xác định bốn nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam là:
-         Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp.
-         Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
-         Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
-         Nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Trong bốn nguy cơ trên, có hai nguy cơ bên trong rất nguy hại và nó chính là chỗ dựa để cho những nguy cơ từ bên ngoài tấn công vào Đảng. Cụ thể là:
- Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa là nguy cơ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt là khi có những biến động lớn ở trong nước cũng như trên thế giới và trong những bước ngoặt của cách mạng. Tuy nhiên, nguy cơ này chỉ diễn ra ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, bởi đây là cấp hoạch định ra đường lối. Vì vậy, việc xây dựng một tập thể lãnh đạo cao nhất của Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ của cách mạng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, bởi vì nếu cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng vững vàng, kiên định về đường lối thì dù có một số cấp lãnh đạo ở địa phương, cơ sở có chệch hướng về điểm này, điểm khác thì cũng không thể lay chuyển được sự lãnh đạo của Đảng.
- Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ. đảng viên và tệ nạn quan liêu xa dân, tham nhũng, lãng phí. Đây là nguy cơ nguy hiểm nhất và có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bởi vì, khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, một bộ phận đáng kể cán bộ, đảng viên trở thành những cán bộ có chức, có quyền trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Đây là điều kiện dễ làm cho cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, chạy theo chức, quyền, danh, lợi, dẫn đến phai nhạt lý tưởng, tham nhũng, xa rời nhân dân và dễ sa vào những tệ nạn mà khi Đảng chưa giành được chính quyền thì không có được. Những tệ nạn này không chừa một ai và bất kỳ cán bộ đó làm gì, ở lĩnh vực nào, ở cấp cao hay thấp, nếu cán bộ đó không kiên trì học tập, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng thì đều có thể mắc phải. Trong điều kiện mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân diễn ra rất tinh vi, phức tạp và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự suy thoái, biến chất không chỉ diễn ra riêng lẻ và đối với những đảng viên thường, mà có nơi, có lúc đã trở thành số đông có tính chất tập thể, thậm chí là cả một tổ chức, một cấp ủy và xảy ra đối với cả một số cán bộ có trình độ cao, có những người giữ chức vụ chủ chất trong bộ máy của Đảng hoặc cơ quan quản lý của Nhà nước. Đây là nguy cơ "diễn biến bên trong" đặc biệt nguy hại không thể coi thường và đang là những thách thức lớn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Vì vậy, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ những nguy cơ, thách thức đối với Đảng ta hiện nay là: "Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có những diễn biến phức tạp"2.
3.Các bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 5 bài học lớn; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI trình Đại hội XI của Đảng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm.
a)Năm bài học lớn trong Cương lĩnh Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa là của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức thạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
b) Năm bài học kinh nghiệm trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp.
Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.
Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng. Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Ba là, phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
III. VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Khái niệm lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng
Lãnh đạo là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa một chủ thể nhất định, gọi là chủ thể lãnh đạo, đối với chủ thể khác, gọi là chủ thể bị lãnh đạo hay đối tượng của lãnh đạo, trong đó chủ thể lãnh đạo có khả năng tác động vào đối tượng lãnh đạo, làm cho đối tượng thực hiện theo ý muốn của chủ thể lãnh đạo, từ đó chủ thể lãnh đạo đạt được mục tiêu nhất định.
Lãnh đạo bao gồm các thành tố.
- Chủ thể lãnh đạo.
- Đối tượng của lãnh đạo hay chủ thể bị lãnh đạo.
- Mục tiêu và nội dung lãnh đạo.
- Phương thức lãnh đạo.
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". 
Ở đây, Đảng là chủ thể lãnh đạo; đối tượng lãnh đạo của Đảng là Nhà nước và xã hội; mục tiêu cao nhất sự lãnh đạo của Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, đồng thời với nhiều mục tiêu trung gian trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và các mục tiêu cụ thể trên các lĩnh vực kinh tế xã hội...; nội dung lãnh đạo của Đảng là các nhiệm vụ, các vấn đề kinh tế xã hội; phương thức lãnh đạo của Đảng là các công cụ, phương tiện, cách thức... mà Đảng sử dụng để tác động vào Nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng các phương thức sau:
- Đảng đề ra Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, chiến lược, kế hoạch về các vấn đề kinh tế, xã hội...
Căn cứ vào các văn kiện, chủ trương, quan điểm... của Đảng, các tổ chức đảng, các tổ chức nhà nước và xã hội có trách nhiệm thể chế hóa và tổ chức thực hiện theo quy định của Điều 4 Hiến pháp.
- Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ chức, cán bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đảng tổ chức ra các tổ chức chính trị, xã hội để tác động vào Nhà nước và xã hội; đề cử các cán bộ, đảng viên ưu tú vào bộ máy nhà nước, vào các tổ chức chính trị, xã hội; thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên để thực hiện các mục tiêu của mình.
- Đảng lãnh đạo xã hội bằng công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và vận động nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng sự nêu gương, làm gương, đi đầu trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội...
Trải qua hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, từ lãnh đạo cách mạng trong điều kiện chưa có chính quyền đến khi trở thành Đảng cầm quyền; từ cầm quyền khi có nhiều đảng phái đến khi trở thành một đảng duy nhất cầm quyền; từ cầm quyền một nửa nước đến cầm quyền trong cả nước; từ lãnh đạo chiến tranh là chủ yếu đến lãnh đạo xây dựng đất nước trong hòa bình, trong mỗi thời kỳ của cách mạng đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của tình hình trong nước và ngoài nước. Điều này đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử, qua các giai đoạn, thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong quá trình đổi mới đất nước, việc xây dựng Đảng diễn ra trong những điều kiện khác hẳn trước. Nền kinh tế nước ta chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường đòi hỏi ở Đảng sự kiên định, năng động, nhạy bén, đồng thời có sức đề kháng cao trước những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Bước vào thời kỳ mới, Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng Đảng không làm thay công việc của Nhà nước, mà xây dựng Nhà nước vững mạnh, để Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành luật pháp, thành các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện. Nhà nước phải quản lý đất nước theo pháp luật và bảo đảm hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là quan điểm cơ bản đã được Đảng ta nêu ra từ lâu, nhưng thực hiện vẫn còn hạn chế. Hơn nữa, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, ý thức về trách nhiệm và quyền công dân càng đòi hỏi phải đẩy mạnh việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng đòi hỏi Đảng ta phải thay đổi nhận thức, thay đổi phương thức lãnh đạo cho phù hợp. Tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, các quan hệ quốc tế đang diễn ra rất phức tạp. Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, với hai mặt tích cực và tiêu cực. Nước ta đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi Đảng phải thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo phù hợp.
2. Kết quả đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đã khẳng định: "Những đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã góp phần nâng cao hơn hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật, nâng  cao hơn chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất nước"3. Cụ thể là:
-Nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo và ý nghĩa, tầm quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng rõ hơn. Cương lĩnh 1991 xác định: Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động; bằng công tác tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
- Qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, trải qua các kỳ Đại hội, nhận thức về phương thức lãnh đạo rõ hơn, đầy đủ hơn: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng phải thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Những đổi mới về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội là định hướng chính trị cho đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong những năm qua.
Đảng đặc biệt coi trọng việc thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, đường lối thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội trong các hoạt động lập pháp, giám sát tối cao và việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Định hướng cho việc ban hành cơ chế, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... của Chính phủ.
- Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, thực hành công khai, dân chủ trong Đảng và trong xã hội; phát huy và thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân; phát huy tính năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.
Việc lập đảng đoàn, ban cán sự đảng, giới thiệu những đảng viên của Đảng vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị, củng cố tổ chức cơ sở đảng và phát huy vai trò quản lý, giám sát của tổ chức đảng đối với đảng viên, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên đã có tác động tích cực đến việc giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã được tăng cường; Đảng lãnh đạo, phối hợp sự kiểm tra, giám sát của Đảng, của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, của nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, tập thể và cá nhân cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trách nhiệm đối với công việc, phục vụ nhân dân.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và phong cách làm việc của các cấp ủy có đổi mới theo hướng khoa học, dân chủ, sát cơ sở.
Bên cạnh thành tựu, Nghị quyết Trung ương khóa X nhấn mạnh: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và lúng túng. Cụ thể:
Một là, vẫn còn tình trạng cấp ủy bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực. Chậm ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; về mối quan hệ công tác giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hai là, còn thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, công tác cán bộ đổi mới chậm; chất lượng công tác tư tưởng, tuyên truyền còn nhiều hạn chế. Chậm cụ thể hóa tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho từng chức danh cụ thể ở các cấp, các ngành. Chất lượng công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ còn hạn chế, chính sách đãi ngộ cán bộ còn bất cập; chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng người có đức, có tài, thay thế kịp thời những người yếu kém về phẩm chất và năng lực.
Ba là, chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc; tình trạng họp hành nhiều, nói chưa đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu gương mẫu còn diễn ra ở nhiều nơi.
Nguyên nhân của thành tựu:
Một là, đường lối đổi mới đúng đắn và những thành tựu đạt được của đất nước trong hơn 25 năm qua đã đặt ra những yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và là cơ sở khoa học để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là, Đảng ta ngày càng quan tâm, nhận thức rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, coi đổi mới phương thức lãnh đạo là một trong những nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng.
Ba là, trong quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng ta vừa giữ vững những nguyên tắc cơ bản của công tác xây dựng Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa bám sát thực tiễn đất nước, tổng kết thực tiễn, phát huy dân chủ để tìm tòi, đổi mới một cách sáng tạo.
Nguyên nhân của hạn chế:
Phương thức lãnh đạo của Đảng nhiều năm trong thời kỳ chiến tranh và quản lý tập trung quan liêu, bao cấp còn ảnh hưởng đến ngày nay.
- Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề mới mẻ, chưa có thực tiễn trong nước và trên thế giới, đòi hỏi phải tìm tòi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.
- Lý luận về Đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một Đảng cầm quyền còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ, nhận thức còn khác nhau.
- Những hạn chế trong tổ chức bộ máy và yếu kém trong đội ngũ cán bộ đã tác động tiêu cực, cản trở việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Chậm ban hành đầy đủ, đồng bộ các quy chế, quy định về sự lãnh đạo và phối hợp công tác giữa tổ chức đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị.
3. Một số vấn đề tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
a) Mục tiêu
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X xác định mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm:
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân;
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội;
- Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân;
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội;
- Đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b) Quan điểm chỉ đạo
Nghị quyết Trung ương 5 khóa X nêu bốn quan điểm chỉ đạo về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị như sau:
Một làđổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hai làđổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Ba làđổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng. Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm cao, đồng thời có bước đi vững chắc. Vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm.
Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng ngành.
c) Nhiệm vụ và giải pháp
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X đã nêu bảy nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể là:
- Đối với hoạt động của Quốc hội và Chủ tịch nước;
- Đối với hoạt động của Chính phủ;
- Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp và Kiểm toán Nhà nước;
- Đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội;
- Đối với công tác cán bộ;
- Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan đảng;
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương

Câu 2: TRÌNH BÀY NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ Khái niệm:  Như bất kỳ một tổ chức chính trị nào khác, sự tồn tại v...